Ngày 1/3, RFA Tiếng Việt có bài: “Sáp nhập tỉnh: động cơ chính trị và hệ lụy”.
Theo đó, RFA cho hay, Sau khi đất nước thống nhất vào tháng 4/1975, Việt Nam có 72 đơn vị hành chính cấp tỉnh. Miền Bắc có 25 đơn vị và miền Nam có 47 đơn vị. Đến tháng 12/1975, Quốc hội khóa 5 ra nghị quyết bãi bỏ cấp khu, giải thể khu tự trị, sáp nhập hàng loạt tỉnh phía Bắc và Bắc Trung Bộ, tới năm 1976, cả nước chỉ còn 38 tỉnh.
Trải qua vài lần sáp nhập rồi tách tỉnh cả nước hiện tại có 63 tỉnh, thành. Giờ đây, câu chuyện sáp nhập đơn vị hành chính lại một lần nữa được khuấy lên.
Đề án sáp nhập tỉnh được giải thích nhằm phục vụ nhu cầu phát triển, do nhiều tỉnh hiện tại không đạt tiêu chuẩn về dân số và diện tích, trong khi những tỉnh có tiềm năng phát triển lại không đủ dư địa.
RFA dẫn lời Tiến sĩ Thủy Nguyễn, Đại học Oregon, Hoa Kỳ, cho rằng, nguyên nhân chính yếu cho việc sáp nhập hay tách tỉnh, là để củng cố hay bẻ gãy quyền lực chính trị.
Đề án sáp nhập các tỉnh, theo Tiến sĩ Thủy Nguyễn, vì thế có vai trò quan trọng đối với vị thế chính trị của ông Tô Lâm, người đang cần tập trung quyền lực để thực hiện những tham vọng cải tổ:
“Điều này trùng khớp với việc ông Tô Lâm đang rà soát lại bộ máy hành chính, sa thải nhiều công chức, cắt bớt nhiều cơ quan. Nói chung là một xu hướng củng cố vị thế chính trị mạnh mẽ”.
Bà Thủy giải thích thêm, việc giảm số tỉnh đồng nghĩa với giảm số lượng người đứng đầu tỉnh, cả bên đảng và chính phủ. Như vậy, số phiếu đại biểu quốc hội hay đại biểu dự Đại hội Đảng toàn quốc, vốn trước kia được phân bổ theo đơn vị tỉnh, sẽ có biến động. Điều này có ảnh hưởng đến việc bầu ban chấp hành trung ương và bộ chính trị.
“Mặt khác, việc chọn ra người đứng đầu tỉnh mới cũng là sự biểu diễn của quyền lực mới. Người được chọn thường sẽ là người có khuynh hướng đồng nhất với người đứng đầu Đảng hiện nay. Cả 2 yếu tố này đều đóng góp vào tiến trình củng cố vị thế chính trị của ông Tô Lâm”, theo Bà Thủy.
RFA cho biết, theo quy định của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các tỉnh thành phải đáp ứng 3 tiêu chí quan trọng gồm: quy mô dân số, diện tích tự nhiên và số đơn vị hành chính cấp huyện.
Những địa phương không đáp ứng đầy đủ các tiêu chí này sẽ nằm trong diện xem xét sáp nhập.
Nếu chỉ dựa vào những tiêu chí cứng như diện tích, và dân số để làm cơ sở hình thành tỉnh, thì sẽ tạo ra nhiều bất cập.
Theo RFA, cho đến hôm nay, số lượng tỉnh, thành còn lại sau khi sáp nhập vẫn là con số bí ẩn. Một số tài khoản mạng xã hội đồn đoán, sau khi sáp nhập, 63 tỉnh thành còn lại 31 tỉnh thành. Tuy vậy, thông tin này bị công an Thành phố Hồ Chí Minh cho là tin giả, và khuyến cáo người dân cần thận trọng, nếu đưa tin sai sự thật sẽ bị phạt tiền.
Cho dù con số tỉnh, thành sáp nhập là bao nhiêu thì cuộc sống người dân cũng ít nhiều bị ảnh hưởng, từ thủ tục giấy tờ, bất động sản đến cơ hội việc làm và dịch vụ công. Nhiều người lo lắng mất đi bản sắc địa phương khi tỉnh bị sáp nhập.
RFA dẫn lời bà Tuyết ở Tây Ninh thì cho việc sáp nhập tỉnh, thành sẽ gây rắc rối cho dân nhiều thứ, như phải sửa lại địa chỉ trên giấy tờ, sợ mất việc làm…
Tiến sĩ Thủy Nguyễn cho rằng, để sáp nhập và chia tách các đơn vị hành chính một cách bền vững, thì phải cân bằng được cả 3 yếu tố là lợi ích về kinh tế; nhân khẩu và xã hội, và thỏa thuận tương đối về quyền lực chính trị:
“Điều thứ nhất và thứ 2 có thể trả lời thông qua trưng cầu dân ý. Việt Nam công bố là có tham khảo ý kiến của người dân. Nếu tham khảo được đa dạng và số lượng người đủ có ý nghĩa thống kê thì mới là thực chất. Điều thứ 3 rất khó thấy. Một cách lý tưởng nhất thì người dân có thể tiệm cận được thông qua việc tranh luận mở ở quốc hội hay báo chí công khai”, bà Thủy phân tích.
Thu Phương – thoibao.de